Thứ Năm, 17 tháng 3, 2022

Sợi cuốn rơm

 Rơm rạ được coi là một nguyên liệu quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Bởi vậy mà trong quá trình thu hoạch rơm rạ, người nông dân sẽ cần sử dụng đến các loại dây cuốn để cố định rơm rạ được chắc chắn nhất và có thể vận chuyển đi xa. Với các dòng sản phẩm dây cuốn rơm (chỉ cuốn rơm) tại Nam Phát sau đây sẽ giúp khách hàng lựa chọn được một vật liệu cuốn rơm rạ chất lượng tốt, sử dụng lâu dài với chi phí tiết kiệm.

1. Thông số kỹ thuật sản phẩm

  • Dây được sử dụng để cố định rơm rạ
  • Tên sản phẩm: Dây cuốn rơm hay chỉ cuốn rơm rạ.
  • Chất liệu sản phẩm: Sợi đay, nhựa PP nguyên sinh, sợi chỉ SE.
  • Kích thước: Đa dạng 6-10 kg/ Cuộn 
  • Màu sắc: Nhiều màu.
  • Quy cách đóng gói: Đóng gói thành từng cuộn bao 25- 50 kg 

2. Đặc điểm của dây cuốn rơm

Rơm rạ trước đây sau khi được thu hoạch thường được gom lại và tái sử dụng trong những công việc làm nông. Tuy nhiên trên thực tế, rơm rạ còn là một nguyên liệu quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: Thức ăn cho gia súc, chất đốt, giá thể cây trồng, sản xuất vật liệu xây dựng... Bởi vậy mà hiện nay rơm rạ sau khi thu hoạch đã được tập kết và cố định bằng các loại dây buộc để đưa vào các dây chuyền sản xuất.
Loại dây được sử dụng để buộc rơm rạ hiện nay khá phong phú. Cụ thể chúng có những đặc điểm chung như:

  • Có chiều dài lớn có thể cố định được những bó rơm rạ to.
  • Độ bền cao, có khả năng chịu nước tốt.
  • Sử dụng dễ dàng.
  • Tái sử dụng mà chất lượng không bị ảnh hưởng.
  • Màu sắc đa dạng: Thường là màu trắng nhưng có thể sản xuất với nhiều màu sắc khác nhau.
  • Rơm rạ sau khi thu hoạch sẽ được cố định bằng dây cuộn chuyên dụng

3. Phân loại dây cuốn rơm (chỉ cuốn rơm)

Hiện nay dây cuốn rơm có rất nhiều loại khác nhau. Chính bởi sự đa dạng này đã giúp cho người nông dân có thêm nhiều lựa chọn phù hợp với nhu cầu và điều kiện kinh tế. Cụ thể:

  • Dây cuốn rơm sợi đay: Đây là loại chất liệu phổ biến nhất hiện nay. Sợi đay có đặc điểm là linh hoạt, độ bền cao và hình thức đẹp, an toàn với môi trường.
  • Chỉ cuốn rơm nhựa PP nguyên sinh: Là loại dây được làm từ nhựa PP nguyên sinh. Bởi vậy mà chúng hoàn toàn an toàn và thân thiện với môi trường. Loại này hiện nay được sử dụng khá nhiều.
  • Chỉ cuốn rơm se sợi PE: Đây là loại dây buộc được hình thành từ những chỉ pe nhỏ và được se thành sợi lớn. Mặc dù mỏng manh nhưng chúng lại cực kỳ dai và chắc chắn hơi sợi dây day 

Hiện hay Chỉ cuốn rơm sợi PE được sủ dụng nhiều bởi vì ưu điểm như sợi pe chắc hơn sợi đay,tiết diện nhỏ => cuộn nhỏ tiết kiệm chi phí vận chuyển và sử dụng dễ dàngtiết kiệm hơn sử dụng sợi day 
Dây cuốn rơm sợi PE hiện nay bạn sẽ thấy xuất hiện khá nhiều trong cuộc sốngNgoài việc được sử dụng để cố định rơm rạ thì  chỉ cuốn rơm còn được sử dụng để đóng gói hàng hóa như làm chỉ may bao..... 

4. Ưu điểm nổi bật của dây cuốn rơm

Mặc dù có rất nhiều phương án cố định rơm rạ nhưng chỉ cuốn rơm vẫn được ưa chuộng rất nhiều. Chúng mang đến giải pháp đóng gói hiệu quả với nhiều ưu điểm vượt trội như:
Rơm rạ được cố định chắc chắn và có thể vận chuyển dễ dàng mà không bị ảnh hưởng

  • Chất lượng tốt: Các loại dây cuốn rơm đều được sản xuất bằng những chất liệu tốt, dẻo dai và chịu lực tốt.
  • Hình thức đẹp: Dây cuốn rơm ngoài màu sắc cơ bản thì hiện nay còn có nhiều màu sắc đa dạng khác nhau giúp việc phân loại được dễ dàng hơn.
  • Đa dạng kích thước: Dây cuốn rơm hiện nay được sản xuất với đa dạng các kích thước chiều dài khác nhau nhằm phù hợp với mọi nhu cầu sử dụng.
  • Độ bền lâu: Dây quấn rơm đều được sản xuất từ các chất liệu không thấm nước, có thể thích nghi tốt với nhiều điều kiện môi trường và kháng lại được sự ảnh hưởng của côn trùng hay nấm mốc. Bởi vậy nên chúng có độ bền lâu, bạn có thể sử dụng trong thời gian dài.
  • Tiết kiệm chi phí: Thay vì sử dụng các loại dây buộc không đảm bảo thì dây quấn rơm chuyên dụng sẽ giúp bạn cố định rơm rạ, hàng hóa chắc chắn với thời gian lâu. Điều này sẽ giúp bạn tiết kiệm được nhiều chi phí hơn.
  • Tiết kiệm thời gian và công sức: Thay vì phải mất nhiều thời gian để bó rơm rạ thành từng cuộn thì bạn chỉ cần sử dụng dây cuộn chuyên dụng là nhanh chóng cố định được chúng.

Hiện nay, Nam Phát là một trong những đơn vị chuyên cung cấp và phân phối dây cuốn rơm (chỉ cuốn rơm) số lượng lớn. Với chất lượng đảm bảo chuẩn 100%, giá thành hợp lý nhất, Công ty sẽ giúp khách hàng và người nông dân có được giải pháp cố định rơm rạ hiệu quả và tiết kiệm nhất.

Nguồn bài viết: https://namphatplastic.com/vi/day-cuon-rom

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2020

Hiện trạng ứng dụng công nghệ và thay đổi việc làm, kỹ năng lao động trong ngành công nghiệp điện tử và may mặ


Cùng chúng tôi tìm hiểu về việc ứng dụng công nghệ và thay đổi việc làm trong ngành công nghiệp điện tử và may mặc

1. Tổng quan về ngành công nghiệp điện tử và dệt may



Điện tử là ngành công nghiệp quan trọng nhất đối với kinh tế Việt Nam, tăng trưởng nhanh về giá trị sản xuất và đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay
Trong vòng 5 năm qua (2011-2015), số lượng doanh nghiệp điện tử đã tăng gấp hai lần, đạt 1.237 doanh nghiệp ở năm 2015; lao động trong ngành cũng tăng hơn hai lần, đạt 395.000 người năm 2015, chiếm gần 1% tổng số việc làm của nền kinh tế. Đến năm 2015, ngành điện tử vẫn chủ yếu sử dụng lao động không có chuyên môn kỹ thuật hay lao động có trình độ thấp (không có bằng cấp, chứng chỉ), chiếm 70,87% tổng lao động của ngành.
Công nghiệp dệt may cũng là một trong những động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam (đứng sau ngành công nghiệp điện tử), tăng trưởng khá về giá trị sản xuất và đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, chuỗi giá trị ngành dệt may còn nhiều hạn chế, sự liên kết giữa các mắt xích chưa chặt chẽ khiến giá trị gia tăng còn thấp. Trong giai đoạn 2011-2015, số lượng doanh nghiệp may mặc lớn và đã tăng 1,4 lần, đạt 6.307 doanh nghiệp ở năm 2015, tuy nhiên, chủ yếu lại là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (87%); lao động trong ngành cũng tăng hơn 1,3 lần, đạt 1.823.000 người năm 2015, chiếm 3,4% tổng số việc làm của nền kinh tế. Chất lượng lao động của ngành may mặc rất thấp, mới chỉ có gần 15% lao động của ngành đã qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ (so với 29% của ngành điện tử và 22% của cả nước).


2. Ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong ngành điện tử và may mặc công nghệ 


Trình độ công nghệ trong ngành điện tử và công nghiệp dệt may còn thấp và đang trong quá trình đổi mới. Về tổng thể, công nghệ và trang thiết bị sản xuất của ngành công nghiệp điện tử còn lạc hậu 10-20 năm so với khu vực và thế giới. So sánh với các nước ASEAN 5, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam mới đang ở cuối giai đoạn 1 (lắp rápsảnphẩmtừphụkiệnnhậpkhẩu),đầu giai đoạn đầu tự sản xuất linh kiện phụ tùng phát triển công nghiệp phụ trợ (Hiệp hội Điện tử Việt Nam, 2015). Đối với ngành may mặc, công nghệ vẫn đang ở trình độ 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2- 3 thế hệ (UNDP, 2015). Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc của Việt Nam hiện nay vẫn đang sản xuất theo phương thức gia công đơn giản (82%). Các viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử và dệt may cho thấy, ngà nh may có tố c đô ̣ đổ i ḿ i khá nhanh, trong vò ng mấ y năm tr̉ laị đây, đã đổ i ḿ i đươc̣ khoảng 95% máy móc thiết bi,̣ trong đó có khoảng40%máymócchấtlươṇgcao,tự đôṇghóasảnxuấtnhư:máycắtchỉtựđôṇg, ráp sơ đồ tự đôṇ g, trải vải tự đôṇ g. Về trình đô ̣ công nghê ̣ củ a ngà nh may hiêṇ nay đươc̣ đánh giá là khá tiên tiến và bắt đầu có thể caṇ h tranh đươc̣ v́ i mṭ số nướ c trong khu vưc̣ . Trong khi đó, công nghệ sử dụng trong ngành điện tử chỉ ở mức trung bình khá, so với các nước trong khu vực thì hơn Lào, Cambodia và Myanmar; với các nước còn lại doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ chậm hơn 2-3 thế hệ (20-30 năm).


Trong những năm qua, ngành may có xu hướng đổi mới công nghệ nhanh hơn so với ngành điện tử. Theo kết quả phỏng vấn. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp nội địa còn chậm trong cải tiến và áp dụng công nghệ mới. Khảo sát của ILSSA cho thấy, chỉ có 9% số doanh nghiệp được khảo sát (4/45 doanh nghiệp) cho biết họ đang sử dụng công nghệ mới nhất và hầu hết lại rơi vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực điện tử. 

Đặc biệt, trong số 22 doanh nghiệp có thời gian nhập khẩu công nghệ và máy móc từ năm 2011 trở lại đây, chỉ có 2 doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ mới nhất và hầu hết lại rơi vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực điện tử. Đặc biệt, trong số 22 doanh nghiệp có thời gian nhập khẩu công nghệ và máy móc từ năm 2011 trở lại đây, chỉ có 2 doanh nghiệp nhập khẩu công Nhiều doanh nghiệp FDI cũng còn hạn chế trong ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới. Với con số hơn 22% số doanh nghiệp FDI đang sử dụng công nghệ tươngđối hiện đại và 42% số doanh nghiệp FDI đang sử dụng công nghệ và máy móc nhập khẩu từ trước năm 2010, thậm chí là trước
năm 2000, cho thấy những bất cập trong chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài “bằng mọi giá” của Việt Nam trong thời gian qua..Các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam với chiến lược sản xuất ở công đoạn giá trị gia tăng thấp “tận dụng lao động giá rẻ”, chưa chú trọng công nghệ nguồn, thậm chí còn sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu và chưa thực hiện chuyển giao công nghệ đáng kể cho các doanh nghiệp nội địa. 


Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp nội địa cũng chưa quan tâm đến hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ. Theo kết quả khảo sát, chỉ có 35% số doanh nghiệp được khảo sát quan tâm đến hoạt động nghiên cứu và phát triển về công nghệ (50% doanh nghiệp FDI so với 24% doanh nghiệp nội địa). Các doanh nghiệp điện tử quan tâm hơn đến hoạt động này hơn so với các doanh nghiệp may mặc (40% so với 30%).


 3. Tác động của ứng dụng công nghệ mới đến việc làm và kỹ năng lao động trong các doanh nghiệp điện tử và may mặc 


Thứ nhất, thay đổi về việc làm và nhu cầu kỹ năng lao động do ứng dụng công nghệ mới đang làm trầm trọng thêm sự thiếu hụt về kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng làm việc cốt lõi trong LLLĐ ngành điện tử và may mặc. 


Những thay đổi và ứng dụng công nghệ mới trong lĩnh vực điện tử và may mặc ở Việt Nam đã và đang kéo theo các yêu cầu về các kỹ năng cụ thể, bao gồm: (i) Kỹ năng kỹ thuật ở mức cao và trung bình, bao gồm những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể; và (ii) Kỹ
năng làm việc cốt lõi, bao gồm: kỹ năng sử dụng máy tính, internet, khả năng ngoại ngữ, khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý, kỹ năng tập trung, v.v...

Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát, việc đáp ứng các kỹ năng này của người lao động trong các doanh nghiệp điện tử và dệt may chủ yếu mới ở mức trung bình, thậm chí còn ở mức thấp. Về kỹ năng kỹ thuật, 62% số đại diện doanh nghiệp được khảo sát cho biết lao động của họ mới chỉ đáp ứng yêu cầu ở mức trung bình và 2% đáp ứng ở mức thấp. Đặc biệt, đối với kỹ năng việc cốt lõi, 42% số đại diện doanh nghiệp được khảo sát cho biết lao động của họ mới chỉ đáp ứng yêu cầu ở mức trung bình và 43% đáp ứng ở mức thấp. Tình trạng này ở các doanh nghiệp may mặc trầm trọng hơn so với các doanh nghiệp điện tử. Mức độ đáp ứng của lao động nữ thấp hơn so với lao động nam
 



Lao động trong các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự thiếu hụt về kỹ năng kỹ thuật và thiếu hụt trầm trọng hơn đối với kỹ năng làm việc cốt lõi. Hai phần ba số doanh nghiệp được khảo sát (30 doanh nghiệp) cho rằng phần lớn lao động của họ đang thiếu hụt các kỹ năng lao động liên quan đến chuyên môn kỹ thuật và cả các kỹ năng làm việc cốt lõi khác. Đáng lưu ý, các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới nhất và hiện đại có mức độ thiếu hụt kỹ năng kỹ

thuật thấp hơn so với các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tương đối hiện đại. Trong khi đó, lao động trong các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao này lại thiếu hụt nhiều hơn các kỹ năng làm việc cốt lõi như khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong công việc, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động. Nguyên nhân chính ở đây là khi chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới các doanh nghiệp này đã có sự chuẩn bị LLLĐ có CMKT phù hợp để tiếp nhận công nghệ mới, nhưng đối với các kỹ năng làm việc cốt lõi (kỹ năng mềm, kỹ năng xã hội) thì lao động Việt Nam rất yếu và thiếu, các kỹ năng này không thể đào tạo ngày một ngày hai mà là nó được hình thành từ trong quá trình học tập và rèn luyện từ khi người lao động còn nhỏ đến khi đi làm.
 
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0911904968  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: https://namphatplastic.com/vi/chi-may-bao  -  E: contact.namphat@gmail.com







Thứ Ba, 5 tháng 5, 2020

kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may mặc.

Tìm hiểu về chủ đề kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may mặc qua bài viết sau


1. Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may mặc 


Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Năm 2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 2001 con số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.

Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc
Ngoài ra các sản phẩm phụ trợ về chỉ may bao bì, chỉ may công nghiệp tuy được các doanh nghiệp phát triển nhưng hiện tại chỉ đang bán và sử dụng trong nước chưa hướng tới các thị trường xuất khẩu


2. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới


Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.


Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như : định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục tranh chấp đáng tiếc.

Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất, thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trường quốc tế


Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính, thái độ, phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý

Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói quen”


Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời gian mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ xuất khẩu từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng gia công đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với những mặt hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp nhất đạt giá trị cao mà cụ thể là các nước châu Á đã làm được điều đó như: Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm may mặc xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất khẩu của ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới hình thức này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử dụng nguyên liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và cấp bách.

Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường liên doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu tạo sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương pháp phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may Việt Nam trong thị trường may thế giới.

Xem thêm về các sản phẩm chỉ may công nghiệp tại đây https://namphatplastic.com/ 

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0911904968  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: https://namphatplastic.com/vi/chi-may-bao  -  E: contact.namphat@gmail.com

Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc của thế giới

Cùng chúng tôi tìm hiểu về xu hướng nhập khẩu hàng may mặc của thế giới qua bài viết sau

1. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc của thế giới 


Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:

- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về sở hữu trí tuệ..
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch vụ tiêu thụ...

Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên

Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.

Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.

Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một số đặc điểm sau:

Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta

2. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới


+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho Việt Nam

+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc vào 1/7/ 2000 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực. Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng.

+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp (cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).

+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng may mặc đã đi vào hoạt động

+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.

+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài.

+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.

+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong nước.

+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công, xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.

+ Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây là con số khả quan

+ Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới
đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.


Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao

Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.

Các sản phẩm về chỉ may bao bì, chỉ may công nghiệp tại đây 


CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0911904968  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: https://namphatplastic.com/vi/chi-may-bao  -  E: contact.namphat@gmail.com

Các thị trường may mặc chính của việt nam

May mặc là một ngành chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao nhất của việt nam .Cùng chúng tôi tìm hiểu về một số thị trường chính của ngành may mặc việt nam qua bài viết sau

Thị trường EU


Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây, người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt may từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD

Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm 1999 hàng dệtmay Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp (60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển (7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)... Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như: - Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU. - Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả thuận. - Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái xuất vào EU. - Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU. Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm

Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.


Thị trường Nhật Bản

Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5% 
- Quần áo nữ: 56,4% là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.

Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người 26 nghìn USD/ năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.

Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này.
Tuy nhiên hiện tại việt nam đang nhập khẩu rất nhiều sản phẩm nguyên liệu may mặc từ nhật bản như chỉ may công nghiệp, các loại dây đeo, cúc áo từ thì trường nhật bản 

Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ 


Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:

Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ.

Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.

Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt 5 triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.


Thị trường SNG và một số nước Đông Âu

 Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây.

Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới

Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này

Thị trường các nước ASEAN 

Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “

Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dế ràng hơn.


Thị trường trong nước

 Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.

Ngoài các sản phẩm về may mặc chúng ta cần quan tâm thêm về các sản phẩm phụ trợ của ngành may mặc như các loại chỉ ngũ sắc, chỉ may bao bì, chỉ pp 1200 d Đây là những sản phẩm nhỏ nhưng mang lại giá trị kinh tế lớn tạo công ăn việt làm cho người lao động

Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm tay 

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0911904968  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: https://namphatplastic.com/vi/chi-may-bao  -  E: contact.namphat@gmail.com




Thực trạng chính sách phát triển thương mại nội địa hàng may mặc việt nam


Cùng chúng tôi tìm hiểu về thực trạng chính sách phát triển thương mại nội địa ngành may mặc việt nam qua bài viết sau nhé 

1. Thực trạng phát triển thương mai nội địa ngành may mặc việt nam hiện nay 


Tổng quan thị trường nội địa hàng may mặc Việt Nam  trong giai đoạn hiện nay


Thị trường nội địa đối với hàng may mặc Việt Nam được đánh giá là rất hấp dẫn, với quy mô dân số đông khoảng 92 triệu người, trong đó có 60% là dân số trẻ. Với một lực lượng dân số trẻ như vậy thì đây được coi là thị trường tiềm năng. Nhu cầu của người dân ngày một tăng cao mức chi tiêu cá nhân cho may mặc ngày một tăng chiếm khoảng 14% trong tổng mức chi tiêu. Hiện nay các doanh nghiệp may mặc đang tiếp cận và nắm bắt nhu cầu thị trường trong từng vùng, từng nhóm dân cư kể cả vùng sâu, vùng xa có khó khăn về giao thông và vận chuyển hàng hóa để sản xuất kinh doanh mở rộng mạng lưới bán buôn, bán lẻ nên tổng mức lưu chuyển hàng hóa nói chung và hàng may mặc trên thị trường không ngừng tăng lên. 

Đây được coi là một tín hiệu tốt để tiếp tục phát triển thị trường nội địa khi xuất khẩu bị thu hẹp do tác động của suy thoái kinh tế. Giai đoạn năm 2010- 2017, thị trường hàng may mặc trong nước có những bước phát triển khá. Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến thị trường hàng may mặc trong nước việc tiêu dùng hàng may mặc của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam còn thấp, chiếm khoảng 18%, còn lại 82% xuất khẩu. Nếu nói về sức mua, năm 2017 xuất khẩu toàn ngành trên 28, 81 tỷ USD,  nhưng do thu nhập và tâm lý tiêu dùng  nên quy mô thị trường nội địa năm 2016 mới chỉ đạt 3 tỷ USD


 Hàng may mặc Việt Nam bị cạnh tranh ngày càng gay gắt bởi hàng may mặc  Trung Quốc. Những năm qua, hàng may mặc Trung Quốc, Thái Lan đang áp đảo thị trường nội địa. Hàng may mặc Trung Quốc tràn sang chiếm lĩnh thị trường bằng nhiều đường, dưới các hình thức khác nhau, thông qua cả trao đổi tiểu ngạch và buôn bán bất hợp pháp. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam  trên thực tế giá một chiếc sơ mi cộc tay xuất khẩu của Việt Nam rơi vào trung bình khoảng 300.000 đồng/ chiếc như đối với mặt hàng Việt Tiến, Nhà Bè… trong khi hàng may mặc Trung Quốc trung bình chỉ khoảng 150.000 đồng/ chiếc. 

Hàng may mặc Trung Quốc hiện chiếm lĩnh thị phần lớn và đã làm thay đổi một phần thói quen tiêu dùng sản phẩm may mặc trong một bộ phận dân cư Viêt Nam đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi mà kinh tế còn khó khăn. Còn ở thị trường thành thị nơi mà kinh tế phát triển thì hàng may mặc Việt Nam chịu tác động cạnh tranh ở quốc gia có ngành may mặc phát triển như: Anh, Pháp, Đức. Như vậy, hàng may mặc Việt Nam hiện nay đang bị cạnh tranh trên chính “sân nhà” của mình. Đây chính là một thách thức đối với hàng may mặc Việt Nam không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn cả trong tương lai nếu không có biện pháp ngăn chặn tình trạng này. Vì vậy để giành lại thế chủ động trên chính “sân nhà” đòi hỏi có sự phối kết hợp của nhiều chính sách của Chính phủ,Bộ, Ban ngành. 


2. Thực trạng sản xuất hàng may mặc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 

 Những lợi thế và khó khăn phát triển ngành sản xuất hàng may mặc 

Những lợi thế phát triển ngành sản xuất hàng may mặc Việt Nam Ngành may mặc có thể tận dụng một số lợi thế để phát triển sản xuất trong giai đoạn hiện nay để tăng năng suất lao động. Chính phủ có những biện pháp ưu tiên và khuyến khích đầu tư vào ngành may mặc như: ưu đãi về thuế nhập khẩu cho các nguyên liệu thô với mục đích sản xuất các sản phẩm may tái xuất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới  cũng là một lợi thế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng may mặc

Những khó khăn phát triển sản xuất hàng may mặc Việt Nam

 Ngành sản xuất may mặc Việt Nam cũng đang phải đương đầu với những thách thức không nhỏ. Tỷ lệ nội địa hóa còn thấp 51% vì xuất phát điểm của may mặc Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao và năng lực cạnh tranh còn thấp hơn các nước trong khu vực và trên thế giới là thách thức khi hội nhập kinh tế toàn cầu. Môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Nhiều doanh nghiệp may mặc Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương mại.
Các ngành phụ trợ như sản xuất máy may, chỉ may bao bì, kim cúc, vải đang nhập khẩu từ các nhà cung cấp trung quốc là chính. Tỉ lệ nội địa hóa còn thấp 
 Thiếu lao động cục bộ tại một số thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung, tranh chấp lao động; áp lực tăng thu nhập khá cao trong khi giá hàng dệt may vẫn đang giảm khá thấp. Năng lực cạnh tranh quốc gia (cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống kho bãi, cảng, cửa khẩu…) chưa được cải thiện nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa giúp được các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0911904968  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: https://namphatplastic.com/vi/chi-may-bao  -  E: contact.namphat@gmail.com



Sợi cuốn rơm

  Rơm rạ được coi là một nguyên liệu quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Bởi vậy mà trong quá trình thu hoạch rơm rạ, người nông dân sẽ cần sử ...